Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca


TLYT - “Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca” là bài ca thành đạo của Sơ Tổ Trúc Lâm, khi Ngài xuất gia tu trên núi rừng, được niềm vui đạt đạo.
 
Phật hoàng Trần Nhân Tông. Nguồn: Internet
Với tư cách người xuất gia đạt đạo, Ngài khuyên dạy hàng tu sĩ hãy nuôi ý chí xuất trần, nỗ lực tu hành để đạt được kết quả mỹ mãn. Sau khi tự lợi cho mình rồi, kế đến phải nghĩ đến chúng sinh, vì lợi ích của muôn loài mà truyền bá chính pháp. Đó là công đức lớn lao của hàng xuất gia. Và vua Trần Nhân Tông đã bỏ ngôi vị đế vương, xuất gia vì lợi ích của mình và chúng sinh. Nguyên văn bài ca này:

Sinh có nhân thân,
Ấy là họa cả;
Ai hay cốc được,
Mới ốc là đã.
Tuần này mà ngẫm,
Ta lại xá ta;
Đắc ý cong lòng,
Cười riêng ha hả.
Công danh chẳng trọng,
Phú quý chẳng màng;
Tần Hán xưa kia,
Xem đà nhèn hạ.
Yên bề phận khó,
Kiếm chốn dưỡng thân;
Khuất tịch non cao,
Náu mình sơn dã.
Vượn mừng hủ hỷ,
Làm bạn cùng ta;
Vắng vẻ ngàn kia,
Thân lòng hỷ xả.
Thanh nhàn vô sự,
Quét tước đài hoa;
Thờ phụng bụt trời,
Đêm ngày hương hoả.
Tụng kinh niệm bụt,
Chúc thánh khẩn cầu;
Tam hữu tứ ân,
Ta nguyền được bả.
Niệm lòng vặc vặc,
Giác tính quang quang;
Chẳng còn bỉ thử.
Tranh nhân chấp ngã.
Trần duyên rũ hết,
Thị phi chẳng hề.
Rèn một tấm lòng,
Đêm ngày đon đả.
Ngồi cong trần thế,
Chẳng quản sự thay.
Văng vẳng ngàn kia,
Dầu lòng dong thả.
Học đòi chư Phật,
Cho được viên thành;
Xướng khúc vô sinh.
An thiền tiêu sá.
Ai ai xá cốc,
Bằng huyễn chiêm bao;
Xẩy tỉnh giấc hoè,
Châu rơi lã chã.
Cốc hay thân huyễn,
Chẳng khác phù vân;
Vạn sự giai không,
Tựa dường bọt bể.
Đem mình náu tới,
Cảnh vắng ngàn kia;
Dốc chí tu hành,
Giấy sồi bô bả.
Lành người chẳng chớ.
Dữ người chẳng hay;
Ngậm miệng đắp tai,
Hề chi hoạ cả.
An thân lập mệnh.
Thời tiết nhân duyên;
Cắt thịt phân cho,
Dầu là chim cá.
Thân này chẳng quản.
Bữa đói bữa no;
Địa thuỷ hoả phong,
Dầu là biến hoá.
Pháp thân thường trụ,
Phổ mãn thái hư,
Hiển hách mục tiền,
Viên dung loã loã.
Thiền tông chỉ thị,
Mục kích đạo tồn;
Không cốc truyền thanh,
Âm hưởng ứng dã.
Phô người học đạo,
Vô số nhiều thay;
Trúc hoá nên rồng,
Một hai là hoạ.
Bởi lòng vờ vịt,
Trỏ Bắc làm Nam;
Nhất chỉ đầu thiền,
Sát na hết cả.

Kệ rằng:

Cảnh tịch an cư tự tại tâm,
Lương phong xuy đệ nhập tùng âm.
Thiền sàng thọ hạ nhất kinh quyển,
Lưỡng tự thanh nhàn thắng vạn câm.
 

Dịch nghĩa:

Cảnh lặng, sống yên, lòng tự tại,
Gió mát thổi đến dưới bóng cây thông.
Giường thiền ở dưới gốc cây, kinh một quyển,
Hai chữ thanh nhàn quý hơn vạn nén vàng. 

Dịch thơ:

Sống yên giữa cảnh lặng lòng không,
Gió mát hiu hiu lọt bóng thông.
Dưới gốc, giường thiền, kinh một quyển,
Thanh nhàn hai chữ, đáng muôn đồng.

(Huệ Chi phiên âm từ chữ Nôm)

Nguồn: Thơ văn Lý Trần, NXB Khoa học xã hội, 1977